Kiến quốc xưng đế Tây Hạ Cảnh Tông

Sau khi cha của ông mất vào năm 1032, ông lên kế vị cha làm thủ lĩnh, lãnh tước phong Định Nan quân Tiết độ sứ, Tây Bình vương. Nước Liêu phong ông làm Hạ quốc vương. Tuy xưng phiên thần với cả Tống Liêu, nhưng thực tế ông xây dựng chính quyền độc lập, tự xưng là "Ngột tốt", tức "thiên tử" trong tiếng Đảng Hạng. Việc làm này bị các quý tộc Đảng Hạng phản đối, tuy nhiên, ông không nhượng bộ, dùng các thủ đoạn tàn khốc triệt để tiễn trừ cựu phái. Bên cạnh đó, ông cũng tích cực tự gây dựng cho mình một lực lượng quân đội hùng mạnh gồm 50 vạn quân[cần dẫn nguồn], nhằm đủ sức bảo vệ lãnh thổ Đảng Hạng mà cả Tống Liêu đều dòm ngó.

Khi làm thủ lĩnh, Lý Nguyên Hạo kế thừa ước mơ của cha và ông nội là kiến quốc, xưng đế, xây dựng một triều đại thịnh vượng. Ông sinh ra trong thời buổi li loạn, đất nước Trung Quốc có loạn, nhà Đường mất, rồi tiếp đó là thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Sau đó, thời kỳ này cũng chấm dứt, nhà Tống lên thay. Quân đội nhà Tống tích cực bành trướng lãnh thổ, mong muốn thống nhất Trung Nguyên. Tống binh từng đem binh đánh sang miền đất của ông, kết quả bị ông đánh cho đại bại. Phải nói trong cuộc lãnh đạo quân đội của mình chống xâm lăng, ông là "một người lãnh đạo bền bỉ và mạnh mẽ"[cần dẫn nguồn].

Năm 1034, Lý Nguyên Hạo đem quân tấn công lộ Hoàn Khánh, kết quả là đại thắng, bắt được tướng Tống là Tề Tông Củ. Sau đó, Cảnh Tông chuyển hướng sang tấn công tộc Duy Ngô Nhĩ ở phía Tây vào năm 1036. Cuộc chiến với người Duy Ngô Nhĩ có vẻ mang lại nhiều thắng lợi hơn, ông thắng được bộ tộc này, chiếm lấy một dải đất rộng lớn mà ngày nay chính là tỉnh Cam Túc. Để chiếm được một miền đất rộng lớn như vậy cũng phải mất một thời gian hơi lâu.

Ngày 11 tháng 10 năm Đại Khánh thứ 2[3] (10 tháng 11 năm 1038), Lý Nguyên Hạo chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, đóng đô tại phủ Hưng Khánh (nay là Ngân Xuyên, khu tự trị Ninh Hạ, Trung Quốc). Nhà Tống chỉ gọi Đại Hạ của ông là Tây Hạ.